Ngành khai khoáng của Việt Nam chịu gánh nặng thuế nặng hơn so với các nước cùng ngành trên thế giới
Các doanh nghiệp khai thác mỏ của Việt Nam hiện phải chịu 9 loại thuế và phí, với tổng nghĩa vụ chiếm khoảng 25% doanh thu - cao hơn đáng kể so với mức thông thường là 5–10% ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Úc hoặc Malaysia.
Việc đánh thuế hai lần đè nặng lên lĩnh vực khai thác mỏ
{7 nênNgành khai thác mỏ đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, cung cấp nguyên liệu thô thiết yếu cho các ngành cốt lõi như luyện kim, năng lượng và xây dựng, đồng thời đóng góp đáng kể vào nguồn thu của nhà nước.
Mối lo ngại này được Nguyễn Lê nêu ra tại hội thảo chính sách về quy định tài chính cho ngành khoáng sản, được tổ chức vào ngày 15 tháng 10.
Theo Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký kiêm Trưởng phòng Pháp chế tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các công ty khai thác khoáng sản hiện phải chịu hai nghĩa vụ tài chính chính: thuế tài nguyên khoáng sản theo Luật thuế khoáng sản năm 2009 và phí cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản năm 2010 - các quy định được giữ nguyên trong Luật Địa chất và Địa chất năm 2024 sắp tới Khoáng sản.
“Cả hai khoản phí đều nhằm mục đích đảm bảo nhà nước thu được giá trị từ tài sản khoáng sản quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng hai cơ chế tài chính chồng chéo cho cùng một đối tượng đã gây ra những lo ngại về mặt pháp lý, thực tiễn và kinh tế,” ông Tuấn nói.
Ông trích dẫn phản hồi của doanh nghiệp cho thấy tổng nghĩa vụ tài chính trong lĩnh vực này có thể lên tới 30–40% doanh thu. Ngược lại, các cường quốc khai thác mỏ như Úc, Canada và Indonesia thường chỉ áp dụng hệ thống thuế tài nguyên linh hoạt kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp, dẫn đến gánh nặng thuế chung thấp hơn đáng kể..
Sự chồng chéo giữa thuế tài nguyên và phí quyền khai thác làm tăng chi phí kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh và bóp méo các ưu đãi đầu tư - đặc biệt là những ưu đãi hỗ trợ khai thác hiệu quả và chế biến giá trị gia tăng, vốn là các mục tiêu chiến lược được nêu trong Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển ngành khoáng sản đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia thuế cao cấp và nguyên Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn thuộc Bộ Tài chính, lưu ý rằng các công ty khai thác khoáng sản hiện phải chịu 9 loại thuế. Đáng chú ý, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của họ có thể lên tới 50%, gấp đôi mức 25% áp dụng cho các doanh nghiệp khác.
Theo ông Phụng, phí quyền và thuế tài nguyên về cơ bản giống nhau về cách tính toán và phạm vi, nhưng được xử lý bởi các cơ quan khác nhau bằng các quy trình hành chính riêng biệt, làm tăng gấp đôi gánh nặng tuân thủ.
“Hai khoản phí này có chung cơ sở tính thuế và phương pháp tính thuế - chỉ khác nhau về phương pháp quản lý, mốc thời gian và thẩm quyền - điều này tạo ra nhận thức rõ ràng về việc đánh thuế trùng lặp,” ông giải thích.
Ông nói thêm rằng việc quản lý thuế tài nguyên vốn đã phức tạp, đặc biệt là trong việc xác định sản lượng và giá cả chịu thuế, khiến quy trình này trở nên khó khăn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cơ quan thuế.
Lời kêu gọi hợp nhất nghĩa vụ kép
{7 nênCác chuyên gia đồng ý rằng thách thức lớn nhất nằm ở việc áp dụng đồng thời thuế khoáng sản và phí quyền sử dụng, dẫn đến tình trạng mà nhiều người mô tả là “thuế chồng lên nhau”. Ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Dịch vụ Tư vấn Thuế tại Deloitte Việt Nam, cho biết tổng gánh nặng thuế và phí của ngành hiện lên tới 25% doanh thu - vượt xa mức 5–10% ở các quốc gia ngang hàng như Mỹ, Úc hay Malaysia. Ông nhấn mạnh rằng chỉ riêng thuế doanh nghiệp có thể đạt tới 50% đối với khoáng sản chiến lược như vonfram và đất hiếm - gấp đôi mức 20% tiêu chuẩn.
Từ góc độ kinh doanh, ông Phan Chiến Thắng, Phó Giám đốc điều hành Masan High-Tech Materials, nêu bật những thách thức dai dẳng về thủ tục cấp phép khai thác và chế biến, đặc biệt là khoáng sản chiến lược. Ông lưu ý rằng sự chậm trễ thường khiến các công ty bỏ lỡ những cơ hội thị trường thuận lợi..
"Khi giấy phép đạt đến hạn ngạch, các công ty phải nộp đơn xin lại, quá trình này có thể mất tới một năm. Chúng tôi đề xuất hợp lý hóa các thủ tục này. Đối với các dự án khẩn cấp, chính phủ nên xem xét các giải pháp hoặc cơ chế đặc biệt cho phép các quy trình thủ tục giấy tờ và đầu tư song song để đẩy nhanh tiến độ dự án," ông đề xuất.
Ông. Thắng cũng chỉ ra rằng những thay đổi chính sách hồi tố làm suy yếu niềm tin của nhà đầu tư. Ví dụ, khi Masan đầu tư vào năm 2010, thuế suất khoáng sản là dưới 10%, nhưng những điều chỉnh sau đầu tư đã nâng mức thuế này lên khoảng 6–25%. Ngoài ra, phí môi trường và phí quyền khai thác chỉ được đưa ra sau khi dự án đi vào hoạt động, làm gián đoạn kế hoạch tài chính.
Ông đề xuất hợp nhất phí khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên thành một nghĩa vụ duy nhất và điều chỉnh mức thuế suất cho phù hợp với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Lý tưởng nhất là tổng thuế không được vượt quá 3–8% doanh thu, phù hợp với các thông lệ tốt nhất trên toàn cầu.
Nguyễn Lê